Sanh vi tướng tử vi thần là gì? đúng nhất

Bạn đang tìm hiểu về sanh vi tướng tử vi thần là gì. Dưới đây là những nội dung hay nhất do nhóm damri.edu.vn tổng hợp và biên soạn, xem thêm ở chuyên mục Tâm linh.

sanh vi tướng tử vi thần là gì
Sanh vi tướng tử vi thần là gì? đúng nhất

Tử vi thần tử là gì?

Tử vi của các vị thần là sinh ra một vị tướng mạnh mẽ có công với thế giới, sau đó chết đi và được tôn làm thần.
Tử vi thần chính là câu nói rút gọn của “Sinh thần diện nam/ Tử vi thần tàn Long Châu”.

Những vị tướng nổi tiếng nhất thế giới

Chiến tranh được coi là thảm họa khốc liệt gây ra nhiều cái chết do con người gây ra, nhưng chính chiến tranh cũng tạo nên những anh hùng, những vị tướng tài ba có khả năng thay đổi trật tự thế giới.
Dưới đây là danh sách 10 vị tướng vĩ đại nhất thế giới do Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh đưa ra vào tháng 2 năm 1984. Việt Nam vinh dự có hai người con ưu tú trong danh sách này, đó là anh hùng dân tộc Trần Hùng. Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn. và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

1. Alexander Đại đế (356-323 TCN)

Tiếng khóc chào đời của ông trùng với thời điểm ngôi đền Artemis ở Ephesus bị đốt cháy. Vì vậy, nhiều người cho rằng Alexander Đại đế là con trai của rắn thần. Các nhà tiên tri cổ đại đã tiên đoán, ông sẽ có một “cuộc chiến” trong tương lai.
Sự thật chứng minh rằng niềm tin là đúng. Bởi vì trong quá trình chinh phạt của mình, Alexander Đại đế đã suýt giành chiến thắng. Các trận chiến nổi bật nhất của Alexander là:
Trận Gaugamela diễn ra vào năm 331 TCN, Alexander Đại đế cùng hơn 40.000 quân của mình đã đánh bại hàng nghìn quân Ba Tư do hoàng đế Achaemenes Darius III chỉ huy – người khi đó đang trị vì Ba Tư.

2. Thành Cát Tư Hãn (1162-1227)

Thành Cát Tư Hãn là người đã thống nhất các bộ lạc độc lập ở Đông Bắc Á và thành lập Đế chế Mông Cổ vào năm 1206. Trong thời gian trị vì, ông đã mở rộng đất nước khỏi châu Á. đến Châu Âu.
Giới nghiên cứu đánh giá cao tài năng quân sự của ông, từ tổ chức quân sự đến chiến thuật. Triết lý quân sự mà Thành Cát Tư Hãn cả đời tuân theo là làm sao đánh bại kẻ thù nhanh chóng, ít thiệt hại nhất. Trong các trận chiến, Thành Cát Tư Hãn không bao giờ buông tha kẻ thù, ngay cả khi đối thủ bỏ chạy.

3. Napoléon Bonaparte (1769 – 1821)

Napoléon là một nhân vật chính trị và quân sự kiệt xuất mà cả thế giới ngưỡng mộ và kính sợ.
Một trong những chiến công xuất sắc của Napoléon là trận Tam Hoàng – Austerlitz năm 1805. Napoléon đã chỉ huy thành công 73.000 quân Pháp, đánh bại 80.000 quân của liên minh Áo-Nga.
Các chiến dịch của Napoléon đã được nghiên cứu tại các học viên quân sự trên khắp thế giới. Ông cũng được lịch sử thế giới ghi nhận là vị tướng vĩ đại nhất thế giới thế kỷ 19.

5. Julius Cesar (100 – 44)

Cesar là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự kiệt xuất của La Mã, người đóng vai trò then chốt trong việc biến Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã.
Một trong những chiến công vang dội nhất của Cesar là cuộc chinh phạt xứ Gaule (gồm Pháp, Bắc Ý, Bỉ, Tây Thụy Sĩ,… ngày nay) mở đường cho La Mã thông ra Đại Tây Dương.
Sau đó, ông phát động cuộc xâm lược của người La Mã vào Britannia (nước Anh ngày nay) cũng như việc xây dựng cầu sông Rhine vào năm 55 trước Công nguyên, trở thành vị tướng La Mã đầu tiên vượt qua eo biển Manche và băng qua eo biển Manche. trên khắp bờ biển. bên phải sông Rhine.

6. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300)

Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, là một danh nhân Việt Nam thời nhà Trần. Ông là một trong những người chỉ huy chính trong việc đẩy lùi ba cuộc xâm lược của quân Mông Cổ và sau đó là quân Nguyên Mông vào thế kỷ 13.
Chiến thắng của quân và dân ta trước đội quân Mông Cổ hùng mạnh dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt được coi là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới.

7. Oliver Cromwell (1599 – 1658)

Oliver Cromwell là một vị tướng nổi tiếng trong lịch sử nước Anh. Ông đã lãnh đạo đội quân người sắt đánh bại đội quân của đế quốc Stewart trong cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII, chém đầu vua Charles I (1649).

8. Mikhaiin Cutudốp (1745-1813)

Mikhaiin Cutudop là một nguyên soái trong lịch sử nước Nga. Ông đã lãnh đạo quân đội Nga đánh bại quân Pháp, ngăn chặn cuộc xâm lược nước Nga của Napoléon vào năm 1812. Sau đó, ông lãnh đạo đội quân gồm các quốc gia Áo-Phổ tấn công Paris nhằm lật đổ ách thống trị của Napoléon. .

9. George Zukop (1896 – 1974)

George Zukop là một vị tướng nổi tiếng trong quân đội Liên Xô. Trong Thế chiến thứ hai, Nguyên soái G.K. Zhukov giành vị trí đầu tiên trong bảng vàng về chiến công và quy mô. Tài năng chỉ đạo các chiến dịch và chiến lược của ông được cả thế giới ngưỡng mộ.

10. Võ Nguyên Giáp (19-11-2013)

Võ Nguyên Giáp là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông được mệnh danh là bậc thầy số 1 về chiến tranh du kích.
Dù không được huấn luyện quân sự chính quy, cũng không có quân hàm nhưng Võ Nguyên Giáp đã được phong hàm Đại tướng năm 1948 khi mới 37 tuổi.

\”Sinh vi tướng, tử vi thần\” – Tác Giả: Nguyễn Lý Tưởng

\”Sinh vi tướng, tử vi thần\” – Tác Giả: Nguyễn Lý Tưởng
\”Sinh vi tướng, tử vi thần\” – Tác Giả: Nguyễn Lý Tưởng

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng IV Chiến Thuật Cần Thơ

Đó là những gì chàng trai Nam Kỳ gửi cho cô gái Nam Kỳ, và cô gái trả lời:
Ngày 30-4-1975, sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương và chạy ra nước ngoài, ông Trần Văn Hương cũng từ chức, trao quyền lãnh đạo đất nước cho Đại. Tướng Dương Văn Minh. Dương Văn Minh đã phản bội lời cam kết bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào, tuyên bố đầu hàng Cộng Sản không một mảy may chiến đấu, mặc dù quân đội còn, lãnh thổ còn, không mất hết. tất cả. Trước lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, tướng Nguyễn Khoa Nam trấn tĩnh, chiêu tập binh mã dưới cờ, thông báo tình hình. Sau đó, ông ngồi tại văn phòng chỉ huy, dùng súng tự sát để về với tổ tiên anh hùng, quyết không để thân tướng của mình bị quân thù làm nhục.
Tất cả cán bộ, chiến sĩ và đồng bào nghe tin đều không cầm được nước mắt. Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó cũng tự sát cùng với cấp chỉ huy của mình để thể hiện ý chí bất khuất của một vị tướng anh hùng của quân lực VNCH. (Lời người biên tập: Theo các nhân chứng và tài liệu đáng tin cậy thì Tướng Hưng đã tự sát TRƯỚC Tướng Nam. Căn cứ theo bài viết của bà Phạm Thị Kim Hoàng, phu nhân của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, thì Tướng Hưng đã tự sát. Lúc 8:45 p.m. Ngày 30/5/75, lúc đó Tướng Nam còn sống, ông gọi điện chia buồn, an ủi.Sách Nguyễn Khoa Nam cho biết Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam tự tử vào khoảng 7 giờ sáng ngày 1/5/75).

Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng

Sinh năm 1933 tại Hóc Môn, Gia Định, ông xuất thân trong một gia đình trung lưu, nhưng là một tấm gương đạo đức, được cha mẹ nuôi dưỡng về đức trung, nghĩa, hiếu, nghĩa. Là học sinh giỏi trường Trung học Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao, Sài Gòn, lớn lên trong cảnh chiến tranh, ông nhập ngũ theo lệnh tổng động viên năm 1954 trước ngày hiệp định Giơ-ne-vơ (20-4-1954), tốt nghiệp sĩ quan. . và phục vụ trong quân đội dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ 1954 đến 1963, chỉ huy từ đại đội đến tiểu đoàn. Năm 1967, ông chỉ huy Trung đoàn với quân hàm Trung tá, năm 1968 ông được thăng cấp Đại tá, năm 1971 ông chỉ huy Sư đoàn 5. Năm 1972 ông đã có công trong việc bảo vệ tỉnh Bình Long, giải tỏa áp lực Việt Cộng đang bao vây tỉnh này và được báo chí lúc bấy giờ gọi là “anh hùng cảm tử Bình Long-An Lộc” đã giết chết hàng vạn Việt Cộng. Năm 1973, tư lệnh sư đoàn 21 bộ binh miền Tây. Năm 1974, ông giữ chức Phó Tư Lệnh Quân Đoàn IV dưới quyền Tướng Nguyễn Khoa Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi nhận được tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Việt Cộng, các tướng đầu hàng hoặc bỏ chạy, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lĩnh Vùng IV tự sát, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng về nước. gặp lại vợ con và bạn bè, cán bộ, chiến sĩ dưới quyền, anh đã tự sát tại tư dinh Phó Tư lệnh Quân đoàn vào lúc 8h30 tối hôm đó để lại vợ và 4 người con, 3 gái, một nam.

Thiếu tướng Phạm Văn Phú

Sau Hiệp định Paris 1973, Việt Cộng lợi dụng việc quân Mỹ rút lui, tăng cường đưa quân và xe tăng xâm nhập từ Bắc vào Nam theo đường Trường Sơn và dọc biên giới với Lào, gây áp lực nặng nề lên vùng cao nguyên của Việt Nam. Pleiku và Bản. mê hoặc. Năm 1974, Việt Cộng xâm chiếm tỉnh Phước Long và vùng Tam Giới Việt-Myanmar-Lào. Tháng 3 năm 1975, Việt Cộng tấn công thị xã Ban Mê Thuột và chiếm Quảng Trị. Trước tình hình đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú rút khỏi Pleiku về giữ vùng Duyên Hải. Quyết định sai lầm đó đã làm cho cả một quân đoàn VNCH tan rã, hàng triệu cán bộ, công chức cùng gia đình và đồng bào phải bỏ nhà cửa, tài sản gây cảnh hỗn loạn khắp miền Trung. .
Thừa thắng xông lên, Cộng sản Hà Nội tung quân ồ ạt vào Nam… Ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú đang nằm điều trị tại bệnh viện Đồn Đất (Grall) Sài Gòn, nghe tin. Được tin Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bỏ nước ra đi, Phó Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tướng lĩnh, sĩ quan, chính quyền các cấp và nhân dân đồng loạt bỏ chạy. Để giải thoát, anh quyết định tự sát để làm tròn lòng trung với đất nước. Trước mặt vợ con, bạn bè anh nói lời từ biệt, cảnh cáo mọi người không hợp tác với CS, rồi anh uống thuốc độc tự tử, không để CS bắt lần thứ hai. Vợ con, bạn bè chứng kiến ​​giây phút đau lòng ấy, không ai không thương cảm cho một vị tướng khi lâm vào cảnh túng quẫn, chỉ biết mang đến cái chết để đền nợ nước.
Sau khi anh mất, Việt Cộng tịch thu hết nhà cửa, tài sản, vợ con anh không nhà cửa, phải nương nhờ thân nhân, bạn bè tủi nhục. Người biết chuyện, không có người không yêu hắn.

Thiếu tướng Trần Văn Hai

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và Việt cộng lên đường vào Sài Gòn, ông trở về nhà tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo và đeo đầy đủ quân phục, huy chương, quân hàm. Thiếu tướng Thế rồi gọi vợ con, người thân nói rõ ý định rồi tự sát bằng súng. Trước khi qua đời, ông còn chuẩn bị một nơi xứng đáng là danh tướng. Khi nghe tin đó, họ hàng, bạn bè và nhiều người từng phục vụ dưới quyền ông đều thương tiếc và chạy đến thăm ông. Cùng với niềm thương tiếc của đất nước, gia đình ông còn chịu niềm thương tiếc lớn lao của người chồng, người cha, người anh sống trong sạch, đạo đức mẫu mực, thanh cao, trung với nước. Những người như vậy không dễ có được trong thế giới này.

Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ

Trung Tá Văn, Phó Tham Mưu Trưởng Chiến Tranh Chính Trị Sư Đoàn 5, kể lại giây phút cuối cùng của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ với ông Lê Nguyên Hoàng (chú ruột của Tướng Lê Nguyên Vỹ) như sau:
Ngày 30-4-1975, khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ họp với Bộ Tổng Tham Mưu và các cấp trưởng và nói với anh em: “Mặc dù lệnh trên, tôi kiên quyết không đầu hàng. Ta có cách xử lý của chính mình, các ngươi tự lo liệu đi, chạy được thì chạy.” Trong lúc ở ngoài, Việt Cộng kêu gọi đầu hàng, nhưng ông vẫn bình tĩnh và ra lệnh cho nhà bếp tổ chức tiệc rượu mời anh em. Ăn uống xong, anh đứng dậy đi sang phòng bên cạnh. Một lát sau, có tiếng súng nổ, mọi người chạy vào thì thấy anh mặc quân phục chính quy, mang huân chương và cấp bậc chuẩn tướng nằm chết trên giường. Anh ta dùng súng bắn vào cằm mình và tự sát. Tất cả các sĩ quan đều có mặt khi Việt Cộng vào, tướng Việt Cộng thấy vậy nói: “Đây xứng danh là con của tướng”.
Anh em xin được chôn trong sân bộ chỉ huy cạnh cột cờ, nhưng Việt Cộng không cho. Cuối cùng phải đem chôn ở vườn cao su ngoài đồn.
Trong chiến tranh, vợ con ông chạy theo dòng người tị nạn ra nước ngoài. Hai ngày sau khi anh hy sinh, vợ của Trung úy Tạ Tuân (quận trưởng Bến Cát, em ruột Lê Nguyên Vỹ) đến gặp Việt Cộng, nói dối là vợ anh Lê Nguyên Vỹ, xin nhận xác chồng về chôn. Người thân đã đào mộ, đưa xác về chôn ở Hạnh Thông Tây, bia mộ rõ ràng. Năm 1987, mẹ ông ra Bắc cùng ông Lê Nguyên Hoàng vào cải táng, lấy hài cốt Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ về hỏa táng để thờ ông từ đường họ Lê quê ông ở Sơn Tây. Anh Lê Nguyên Hoàng quan sát kỹ thì thấy sọ chuẩn tướng có một vết đạn xuyên qua.
Chúng tôi viết lại những dòng này, qua lời kể của anh Lê Nguyên Hoàng, hiện sống tại Garden Grove, California.
Nhân ngày quốc hận 30-4, chúng ta xin thắp hương tưởng niệm các anh hùng “thọ, tướng, tử” và các sĩ quan, chiến sĩ cũng như những người yêu nước và đồng bào vô tội đã hy sinh trong cuộc chiến. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 và suốt cuộc chiến từ 1945 đến nay. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, máu của những người yêu nước vẫn đổ trong cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Tấm gương dũng cảm của các anh là tấm gương sáng cho muôn thế hệ noi theo.

Similar Posts